Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2012

Tập Kiếm Tiền Nha!

Hãy tìm và dán link này thử kiên trì làm xem uy tín nhất đó [URL=http://www.neobux.com/?r=truongvantu89][IMG]http://images.neobux.com/imagens/banner9.gif[/IMG][/URL] http://www.neobux.com/?r=truongvantu89

Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011

THÁI ĐỘ VỀ HỌC TẬP

Có lẽ xưa nhất là các tư tưởng của Khổng Tử. Về người thầy, ông có các ý kiến như: Hối nhân bất quyện (dạy người không mệt mỏi), câu này nói về sự nhiệt thành, sự tận tâm, “Giáo bất nghiêm, sư chi nọa” (dạy không nghiêm là lỗi của thầy) câu này khuyên dạy học phải nghiêm túc… về người học, câu nói nổi tiếng nhất của ông là: “Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi” (học mà không suy nghĩ thì sai lầm, suy nghĩ mà không học thì nguy hiểm). Câu danh ngôn này nói về quan hệ biện chứng giữa học và nghĩ, tức cũng là quan hệ giữa trò và thầy, học và dạy. Lý luận sư phạm và dạy học hiện đại không hề bác bỏ mà vẫn khẳng định các ngôn từ minh triết cổ đại. Dạy học là hoạt động sáng tạo từ hai phía: thầy và trò. Nếu chỉ nhấn mạnh một phía, chỉ lấy thầy giáo làm trung tâm hay chỉ lấy học sinh làm trung tâm đều không đúng. Cố giáo sư Nguyễn Ngọc Quang đề xuất khái niệm: dạy học hợp tác (giữa thầy và trò) hoặc: thầy chủ đạo, trò chủ động. Trong quá trình dạy học và giáo dục, cả thầy và trò đều là hai chủ thể giáo dục tích cực, năng động và sáng tạo, hợp tác chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau. Cổ ngữ còn có câu: Giáo học tương trưởng (dạy và học cùng giúp nhau lớn lên). Không những sự dạy của thầy làm cho trò trưởng thành mà ngược lại sự học của trò cũng giúp cho thầy tiến bộ. Quan hệ thầy trò là một trong những quan hệ xã hội và nhân văn cao quý và thiêng liêng nhất xưa nay là vì vậy. Dù ngày nay, các nguồn thông tin văn hóa khoa học đã trở nên vô cùng phong phú, rộng lớn, tính chủ động sáng tạo của người học nâng lên rất nhiều, song điều đó không có nghĩa là vai trò của người thầy bị giảm sút hay triệt tiêu, mà trái lại phải hoàn thiện và nâng cao gấp bội. Bởi vì: giáo dục không chỉ là thông tin mà còn là đào tạo, bao gồm đào tạo và tự đào tạo và chỉ con người mới đào tạo được con người. Câu tục ngữ: Không thầy đố mày làm nên vẫn chưa bị lỗi thời mà còn phải cập nhật trong thời đại mới. Tầm sư học đạo, tôn sư trọng đạo vẫn còn là chân lý và đạo lý thời nay. Cố nhiên như đồng chí Phạm Văn Đồng nói: Thầy phải ra thầy, trò phải ra trò. Thái độ dạy học phải đúng đắn thì thái độ học tập mới đúng đắn. Học tập và suy nghĩ Nói về thái độ học tập, tôi nghĩ trọng tâm là ở hai chữ học và tư - tức học tập và suy nghĩ. Giáo dục ở mọi thời đại đều là sự truyền thụ và kế thừa các giá trị văn hóa, tư tưởng và khoa học từ thế hệ trước đến thế hệ sau. Ta thường gọi đó là hệ thống tri thức hay hệ thống các nguyên lý khoa học. Hệ thống này không phải vô hồn, vô cảm, mà kèm theo nó là một hệ thống tư tưởng (và tình cảm), một chủ nghĩa nhân văn để giáo dục, không phải là sự nhồi nhét đầu óc mà là sự đào tạo con người. Người đi học trước tiên có nhiệm vụ tiếp nhận và lĩnh hội hệ thống tri thức và hệ thống tư tưởng đó, biến nó từ của xã hội, của lịch sử trở thành của bản thân, của cá nhân. Còn gọi đó là sự chiếm lĩnh hay sự đồng hóa. Quá trình này vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan, vừa có tính thụ động vừa có tính năng động. Chúng ta đều biết từ xưa đến nay trong các lớp học, các nhà trường, học sinh đều phải học các môn học, mỗi môn học là một hệ thống nhỏ hợp thành một hệ thống lớn các môn học, gọi là chương trình bộ môn và chương trình tổng thể, đó là một hệ thống tri thức và tư tưởng tạo nên nội dung giáo dục. Khoa tri thức luận hay khoa học luận xác định các nhân tố cơ bản của tri thức phổ thông và chuyên nghiệp (từ tiểu học, trung học đến đại học…) bao gồm các sự kiện, các khái niệm, các tư tưởng, các định luật và cao nhất là các lý thuyết, các học thuyết khoa học, cùng các ứng dụng xã hội, công nghệ và kỹ thuật… Biến tất cả các giá trị và thành tựu khách quan có tính xã hội đó thành các phẩm chất và năng lực chủ quan có tính cá nhân là một công việc vô cùng gian khổ và kiên trì, đòi hỏi những cố gắng rất lớn của người học, từ nhỏ đến lớn, trong một quá trình nhiều năm. Không lạ gì học tập được quan niệm là một quá trình lao động và phấn đấu, “chỉ thêu nên gấm, sắt mài thành kim”, “kiến tha lâu đầy tổ”… Vừa học, vừa tập, vừa hành, người học dần dần mở rộng biên độ và nâng cao trình độ tri thức, tư tưởng, kỹ năng, kỹ xảo của mình để thành người được đào tạo, được giáo dục theo một mục tiêu chung và riêng nào đó. Từ là người được đào tạo trở thành người tự đào tạo, từ là người tiếp nhận tri thức, tư tưởng, kỹ thuật trở thành người vận dụng sáng tạo tri thức, tư tưởng, kỹ thuật… quá trình giáo dục, đào tạo là như vậy. Trong quá trình nói trên, học tập và suy nghĩ là hai thao tác trí tuệ quan trọng nhất. Không học tập thì không có gì để suy nghĩ. Không suy nghĩ thì học tập cũng như không, có khi còn tệ hơn là vì sa vào định kiến, giáo điều sai lầm. Còn chỉ suy nghĩ, suy nghĩ mà không học tập thì suy nghĩ sẽ đi vào cõi mông lung không có nội dung, căn cứ, mục tiêu, có khi trở thành loạn óc, loạn trí. Lỗ Tấn có thiên truyện ngắn Khổng Ất Kỷ miêu tả một nhân vật “thầy đồ cuồng chữ”. Kiểu người này trong cuộc sống chúng ta không phải hiếm gặp. Tiếng Việt ta có những từ ghép: học thức, học vấn, học hỏi, học tập, học hành nêu lên nội dung toàn diện của sự học để nhắc nhủ người học. Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm Vì những nhận thức trên cho nên theo tôi, cái tâm thế đầu tiên của mọi người đi học bất cứ ở đâu chưa phải là thái độ sẵn sàng hoài nghi, sẵn sàng phản bác hay tranh luận như một vài nhà lý luận không sư phạm thuyết giáo. Có lẽ cái tâm thế này nảy sinh do một lối dạy học áp đặt, một lối học thụ động nào đó gây nên thành phản ứng. Tuy nhiên, cái tâm thế đó cũng có tác dụng tiêu cực đối với việc học tập, tạo nên một thái độ học tập đối phó, đề phòng, thiếu cởi mở, tin tưởng. Thái độ học tập cần thiết đầu tiên, như mọi lời khuyên xưa nay, đó là thái độ khiêm tốn, chân thành học tập, sẵn sàng tiếp thu, tiếp nhận mọi tri thức mới mẻ, đúng đắn, tốt đẹp do các môn học, các thầy giáo đem lại. Kể cả những người đã có một trình độ uyên bác nhất định cũng cần khiêm tốn chân thành học tập, huống hồ là những người mới khởi hành trên con đường vạn dặm của tư tưởng, văn hóa, khoa học. Một trong năm điều Bác Hồ dạy thanh thiếu niên là: Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm. Trong học tập cũng vậy, trước hết phải khiêm tốn, thật thà không kiêu ngạo, chủ quan, không giấu dốt, giả dối, “biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, đó là biết vậy”. Thái độ đó còn gọi là “hư tâm học tập”, chuẩn bị cho tâm trí mình trong sáng, cởi mở, sẵn sàng tiếp nhận chân, thiện, mỹ của giáo dục. Kế đó là dũng cảm, tức là mạnh dạn tìm tòi, suy nghĩ, kể cả nghi ngờ, phản biện, tranh luận, đồng thời cũng sẵn sàng phục thiện, thừa nhận sai lầm, sửa chữa thiếu sót, bổ sung kiến thức, như lời dạy của Bác Hồ: học thầy, học bạn, học sách vở, học cuộc sống, học nhân dân… Tư duy giáo dục hiện đại dạy: không chỉ học tri thức mà còn học cách tìm tòi, sáng tạo tri thức, học cách học tập. Muốn có phương pháp học tập đúng, phải có thái độ học tập đúng. Cũng như muốn có phương pháp giảng dạy tốt phải có thái độ giảng dạy tốt, bao gồm sự chuẩn bị thái độ học tập tốt cho học sinh. Trần Thanh Đạm - Báo Giáo Dục

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2011

MERRY CHRISTMAS

Xin gửi tới tất cả quý vị và gia đình các bạn tham gia blogspot một mùa Giáng Sinh: An Lanh - Thánh Đức - Một Năm Mới -An Khang - Thịnh Vượng.

Thứ Hai, 12 tháng 12, 2011

Nghe các bài hát Noel

The first Noel song. Joy to the world song.

MERRY CHRISTMAS

Giáng Sinh đã gần đến, tớ chúc các bạn tham gia blogspt một Mùa Giáng Sinh An Lành-Bình An và Một Năm Mới AN Khang- Thịnh Vượng Christmas day is coming, I wish everybody using blogspot will have a Christmas Day peace, interesting, and the new year wellbeing and prosperity. Một số thiệp Giáng Sinh: Some Postcards:
Hãy chia sẻ cảm nghiệm của bạn về ngày giáng sinh Please to share how you feel to Christmas day.

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2011

Thời Gian Học Là Vàng

Với tựa đề trên, Chúng ta cũng hiểu rõ phần nào tầm quan trọng của thời gian học tập của mỗi người, những ai đã và đang học tập nghiên cứu để bắt đầu làm việc. " Tiên học lễ, hậu học văn" câu tục ngữ trên cung cấp cho chúng ta một phương hướng học tập rất cụ thể. Nhưng thực tế xã hội ngày nay, cái lễ trong câu tục ngữ trên đang giảm sút trầm trọng, cái văn lại không được như xưa. Vài lời giới thiệu mà không một lời chứng minh làm sáng tỏ là một mở đầu cho một video clip được đăng trên youtobe sau đây có thể là đoạn video giải trí. Nhưng phản ảnh trân thực nơi môi trường giáo dục ngày nay. Đặc biệt là ở Việt Nam? http://youtu.be/ce1pfq3iYQg hoặc xem ngay trên thanh video

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

Giới thiệu & đặc thù Quan Họ

Có một miền quê mà cách đây hàng nghìn năm đã sản sinh ra những làn điệu dân ca làm say đắm lòng người. Nghe một lần lại muốn nghe nữa, nghe nữa là lại muốn ở lại nghe mãi không thôi. Người nghe bị mê hoặc bởi những giọng hát ngọt ngào, tình tứ của những con ngời sinh ra và lớn lên cũng những câu dân ca quan họ quê mình. Sau mỗi vụ mùa bận rộn hay khi những hội xuân về những tràng trai đầu đội khăn xếp mặc áo the dài, quần trắng ống rộng và những cô gái mặc áo tứ thân nhiễu điều nép bên hoa lý muôn chùm đầu đội nón quai thao đó là các liền anh, liền chị hẹn gặp nhau trong những câu hát đối đáp giao duyên, những câu hát về quê hương đất nước. Cứ như vậy những câu hát được truyền đi truyền lại qua bao thế hệ. Người dân nơi đây đã nâng niu, nuôi dưỡng và phát triển những khúc hát đó ngày một hoàn thiện hơn. Dân ca quan họ bắc ninh được hình thành khá lâu đời, do cộng đồng người Việt(Kinh) ở 49 làng quan họ và một số làng lân cận thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang hiện nay của Việt Nam sáng tạo ra. Dân ca quan họ là hát đối đáp nam,nữ. Họ hát quan họ vào mùa xuân,mùa thu khi có lễ hội hay khi có bạn bè. Một cặp nữ của làng này hát với một cặp nam của làng kia với một bài hát cùng giai điệu, khác về ca từ và đối giọng. Cặp hát phân công người hát dẫn, người hát luồn nhưng giọng hát của hai người phải hợp thành một giọng. Họ hát những bài ca mà lời là thơ,ca dao có từ ngữ trong sáng, mẫu mực thể hiện tình yêu lứa đôi, không có nhạc đệm kèm theo. Có 4 kỹ thuật hát đặc trưng : Vang,rền nền, nảy. Hát quan họ có 3 hình thức chính :Hát canh,hát thi lấy giải,hát hội. Hát quan họ gắn liền với tục kết chạ, tục kết bạn giữa các bọn quan họ,tục “ngủ bọn”. Mặc dù các phong tục này không được thực hành nhiều như trước đây, cộng đồng cư dân các làng quan họ vẫn bảo tồn và truyền dạy nghệ thuật dân ca quan họ này. Dân ca quan họ Bắc Ninh là hát đối đáp nam nữ. Hiện nay vẫn chưa có câu trả lời cuối cùng về thời điểm ra đời của Dân ca quan họ trong lịch sử. Đối chiếu lời của các bài quan họ trong sự phát triển của Tiếng Việt, có thể nghĩ rằng Dân ca quan họ phát triển đến đỉnh cao vào giữa thế kỉ XVIII, Chủ nhân của quan họ là những người nông dân Việt (Kinh), chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước. Mỗi làng quan họ đều có lễ hội riêng. Quan họ tồn tại song hành cùng lễ hội làng, nơi mà người dân thờ thành hoàng, nữ thần, một đôi trường hợp là tín ngưỡng phồn thực. Trong số các lễ hội làng quan họ, hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) mở vào 13 tháng giêng âm lịch, là hội lớn nhất. Quan họ có các hình thức: hát thờ, hát hội, hát thi lấy giải, hát canh. Hát canh giữa bọn quan họ làng sở tại và bọn khách, ngoài bài Mời nước, Mời trầu, là 3 chặng hát: giọng Lề lối, giọng Vặt, giọng Giã bạn. Hát quan họ là hình thức hát đôi đồng giọng: người hát dẫn, người hát luồn, hát đối đáp dẫn giọng, luồn giọng một cách điêu luyện. Giọng của hai người hát cặp với nhau phải tương hợp đến mức hai giọng trở thành một để tạo ra một âm thanh thống nhất. Có 4 kỹ thuật hát quan họ là: nền, rền, vang, nảy. Hát quan họ không chỉ đòi hỏi hát tròn vành, rõ chữ, mượt mà, duyên dáng, bằng nhiều kỹ thuật như: rung, ngân, luyến, láy mà còn phải hát nảy hạt. Kỹ thuật nảy hạt của các nghệ nhân quan họ tuy có nét chung với lối hát chèo và ca trù nhưng lại rất riêng, khó lẫn. Tùy theo theo cảm hứng và thị hiếu của người hát, những hạt nảy có thể lớn nhỏ về cường độ. Dân ca quan họ có 213 giọng khác nhau, với hơn 400 bài ca. Lời một bài ca có hai phần: lời chính và lời phụ. Lời chính là phần cốt lõi, phản ánh nội dung của bài ca, lời phụ gồm tất cả những tiếng nằm ngoài lời ca chính, là tiếng đệm, tiếng đưa hơi như i hi,ư hư, a ha v.v… Dân ca quan họ chủ yếu là nghệ thuật phổ lời ca dao và thơ. Nghệ thuật này đòi hỏi phải sử dụng những tiếng phụ, lời phụ bên cạnh những tiếng chính, lời chính nhằm làm cho tiếng hát trôi chảy, bổ sung ý nghĩa cho lời ca chính, làm cho lời ca them phong phú, linh hoạt, tăng cường tính nhạc của bài ca, phát triển giai điệu, làm cho âm nhạc của bài ca trở nên sinh động, bố cục trở nên hợp lí. Không dung tiếng phụ, lời phụ, lời ca dễ đơn điệu, mất cân đối. Chuyển điệu thức là hiện tượng đặc biệt của Dân ca quan họ với 2 hình thức: cách biệt và nối liền. Nghệ nhân ghép hai, ba âm giai ngũ cung trong một bài hát, đã khéo vận dụng nhiều dạng điệu thức khác nhau. Duy trì ở một mức độ nhất định lối cấu trúc mở, họ đã kết hợp một số mô hình cấu trúc tương phản và những thủ pháp đan điệu, chuyển điệu trong cùng một hệ thống ngũ cung hoặc chuyển hệ để phá vỡ sự đơn điệu trong một bài.Bút pháp chuyển điệu điêu luyện đưa quan họ Bắc Ninh lên đỉnh cao của nghệ thuật trong dân ca Việt Nam. Khi hát họ sử dụng những thể thơ và ca dao nhất định của người Việt, phần lớn là thể lục bát, lục bát biến thể, bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp. Lời các bài ca quan họ đều là những câu thơ, ca dao được trau chuốt, từ ngữ trong sang, mẫu mực. Những bài ca quan họ được sang tạo ngẫu hứng trong các kỳ hội làng, hoặc ứng tác ngay trong một canh tác, một cuộc thi trang giải của lang. Nội dung các bài ca thể hiện các trạng thái tình cảm của con người: nhớ nhung, buồn bã khi chia xa, sự vui mừng khi gặp lại của những người yêu nhau, mà không được cưới nhau theo quy định của những tập quán xã hội bằng một ngôn ngữ giàu tính ẩn dụ. Muốn đi hát quan họ phải có bọn: bọn nam hoặc bọn nữ.Trong một làng quan họ thường có nhiều bọn quan họ nam, nữ. Họ tữ nguyện rủ nhau thành bọn. Mỗi bọn quan họ thường có 4, 5, 6 người và được đặt tên theo thứ tự chị Hai, Ba, Tư, Năm hoặc anh Hai, Ba, Tư, Năm. Cũng có bọn quan họ có tới anh Sáu, chị Sáu. Nếu số người đông tới 7,8 người thì có thể đặt tên anh Ba, Tư (bé), chị Ba, Tư (bé) v.v…mà không đặt anh Bảy, Tám, chị Bảy, Tám. Trong các sinh hoạt quan họ, các thành viên của bọn quan họ không gọi nhau bằng tên thật mà gọi theo tên đặt trong bọn. Tuy xưng hô theo thứ tự nhưng bọn quan họ luôn sống bình đẳng, thương yêu nhau. Dân ca quan họ Bắc Ninh tồn tại trong một môi trường văn hóa với những tập quán xã hội riêng. Đầu tiên là tập quán kết chạ giữa các làng quan họ. Trong 44 làng quan họ cổ của tỉnh Bắc Ninh đã có 33 cặp kết chạ, chiếm gần 80% trong tổng số các làng quan họ. Tục kết chạ ở các làng quan họ khác biệt với tục kết chạ ở các địa phương khác trong vùng châu thổ Bắc Bộ. Đó là sự kết chạ bằng một hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian. Từ tục kết chạ, trong các bọn quan họ xuất hiện một tập quán xã hội đặc biệt là tục kết bạn quan họ. Mỗi bọn quan họ của một làng đều kết bạn với một bọn quan họ ở làng khác theo nguyên tắc quan họ nam kết bạn với quan họ nữ và ngược lại. Với các làng đã kết chạ, trai gái trong các bọn quan họ đã kết bạn không được cưới nhau. Không chỉ ca hát, họ còn quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, khi gia đình mỗi người trong bọn có việc hiếu, việc hỉ. Với họ, Quan họ là một thành tố không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Khác biệt của Dân ca quan họ Bắc Ninh so với các loại hình dân ca ở Việt Nam trong việc truyền dạy là tục ngủ bọn. Sau một ngày lao động, đêm đến, bọn quan họ, nhất là thiếu niên nam, nữ từ 9 đến 16, 17 tuổi thường rủ nhau ngủ bọn nhà ông/bà Trùm để học câu, luyện giọng: phải học đủ lối, đủ câu, luyện giọng sao cho vang, rền, nền, nảy, tập nói năng, ứng xử, giao tiếp và phải biết đặt câu, bẻ giọng, ứng đối kịp thời. Yêu cầu đặt với tục ngủ bọn là liền anh/liền chị phải ghép và luyện sao cho từng đôi một thật hợp giọng nhau để đi hát. Năm 1969, Đoàn Dân ca quan họ Bắc Ninh ra đời nhằm phổ biến quan họ một cách rộng rãi. Nghệ sĩ của Đoàn áp dụng những phẩm chất về lời ca và giai điệu của quan họ nhưng lời ca được đơn giản hóa, nhịp nhanh hơn và có nhạc đệm để diễn ở sân khấu. Mặt khác, ở các làng, cộng đồng vẫn lưu truyền, bảo tồn Dân ca Quan họ cổ. Nói đến quan họ Bắc Ninh là nói đến ẩm thực quan họ. Miếng trầu của người quan họ có hai loại: giầu têm cánh phượng và giầu têm cánh quế. Cơm quan họ dung mâm đan, bát đàn, các món ăn trong bữa cơm phụ thuộc vào tập quán của từng làng, nhưng phải có một đĩa thịt gà, hai đĩa giò lụa, thịt lợn nạc, đặc biệt không dung thức ăn nhiều mỡ để tránh hỏng giọng. Trong trang phục quan họ có sữ phân biệt: trang phục của người nữ quan họ gồm nón ba tầm hoặc nón thúng quai thao, khăn vấn tóc (khăn vấn và khăn mỏ quạ), yếm, áo, váy, thắt lưng; trang phục của người nam quan họ gồm khăn xếp, ô lục soạn, áo gồm hai loại: áo cánh bên trong và áo dai 5 thân bên ngoài, quần, dép. Chiếc ô của liền anh, cái nón của liền chị quan họ là biểu tượng chứa đựng tín ngưỡng cổ xưa của người Việt về thế giới tự nhiên: thờ linga, yoni. Sưu tầm( quanho.org)